Mẫu Thư pháp

THƯ PHÁP 




            

       

     


  
  1. Kiểu chữ thư pháp trung hoa 



(Cuồng thảo  狂草 của tuần húc Đời đường).

 Thư pháp 書 法 là nghệ thuật viết 
chữ của người Trung Quốc với các công cụ gọi là văn phòng tứ bảo 文 房四 寶(bút, nghiên, giấy, mực). Người Trung Quốc thường nói: «Học tập thư pháp khả dĩ tu thân, dưỡng tính, đào dã tâm tình.» 學習書法可以修身養性陶冶心情 (học tập thư pháp có thể tu thân dưỡng tính, uốn nắn tình cảm).Với quan niệm này, thư pháp cũng là Đạo (Thư pháp giả, Đạo dã) 書 法者道也Người Nhật từ thuở tiếp thu văn hóa Hán đã nhận ra giá trị cao nhã của thư pháp nên gọi tên là thư đạo 書道 (shōdō). Không những thế, sự nghiên tập thư pháp từ đời Hán đến nay đã trở thành môn học hẳn hoi với đầy đủ cơ sở lý luận gọi là thư học書學.
Nói đến thư pháp là nói đến khổ luyện. Người Trung Quốc thường bảo: «Học thư vô nhật bất lâm trì.» 學書無日不臨池 (Học thư pháp chẳng ngày nào mà không «vào ao»). Thuật ngữ lâm trì ý nói công phu khổ luyện thư pháp. Thư gia Trương Công quyền. 


Thư thể Sấu Kim đặc trưng của Triệu Cát (tức vua Tống Huy Tông)

Chữ khải của nhan
 Chân Khanh

Chữ khải của Liễu Công Quyền


Thảo vương hy tri
























Những người say đắm thư pháp nhiều vô kể. Mỗi một đời đều có một số đại thư gia, từ vua chúa đến sĩ dân. Đường Thái Tông唐太宗 (Lý Thế Dân 李世民) lúc rỗi lấy ngón tay viết chữ trong không khí (trừu không luyện tự 抽空練字); nửa đêm tốc dậy thắp đuốc luyện Lan Đình 蘭亭 (mặc tích của Vương Hi Chi).

Lương Vũ Đế 梁武帝 cực kỳ hâm mộ mặc tích của họ Vương, cho người đi sưu tầm tất cả tác phẩm của Vương Hi Chi, truyền lệnh cho mọi người trong cung phủ phải lấy các thư thể của họ Vương làm chuẩn, rồi sai Chu Hưng Tự 周興嗣 soạn Thiên Tự Văn千字文 và cho người mô phỏng bốn thư thểchân, thảo, lệ, triện của họ Vương mà chép Thiên Tự Văn để dạy chữ Hán và thư pháp cho các con em trong cung phủ. Chu Hưng Tự là văn quan kỳ tài, chỉ dùng 1000 chữ Hán cơ bản viết thành từng câu bốn chữ (không chữ nào lập lại) mà giảng giải được mọi lý lẽ trên đời. Tác phẩm nổi tiếng này không chỉ là sách giáo khoa khải mông (dạy trẻ) từ đời Lương đến đời Thanh mà còn là bí kíp rèn luyện thư pháp cực kỳ quan trọng cho đến ngày nay. Trí Vĩnh thiền sư sao chép 800 bản Thiên Tự Văn theo chữ hànhvà chữ thảo phổ biến cho các tự viện. Các thư gia đều có bản Thiên Tự Văn với thư thể của riêng mình, như Âu Dương Tuân 歐陽詢 đời Đường, Triệu Mạnh Phủ 趙孟頫đời Nguyên, v.v... cho đến các thư pháp gia Trung Quốc hiện đại.
Lịch sử phát triển của thư pháp xuôi theo lịch sử phát triển của chữ Hán. Các thư gia Trung Quốc nhiều vô kể, mỗi người chuyên trị một thư thể, có người vừa là thư gia vừa là họa gia; nếu liệt kê đầy đủ phải là một danh sách dài dằng dặc. Ta chỉ có thể kể những đại thư gia tiêu biểu nhất của từng đời.
Bắt đầu từ đời Tần Thủy Hoàng Đế 秦始皇帝 có thừa tướng Lý Tư 李斯 (người thống nhất văn tự Trung Quốc, được thư pháp sử 書法史 kể là đệ nhất thư pháp gia), Triệu Cao 趙高 , Hồ Mẫu Kính 胡母敬 ,...  
Đời Hán có các thư gia Sử Du 史游 , Tào Hỉ 曹喜, Thôi Viện崔瑗 , Trương Chi 張芝, Sái Ung 蔡邕, Lương Hộc 梁鵠, Lưu Đức Thăng 劉德升,...
Đời Tam Quốc và Tây Tấn có Hàm Đan Thuần 邯鄲淳, Vỹ Đản偉誕, Chung Diêu 鐘繇, Hoàng Tượng 皇象, Vệ Ký 衛覬, Vệ Cẩn衛瑾 (con Vệ Ký), anh em Vệ Hằng 衛恆- Vệ Tuyên 衛宣 - Vệ Đình 衛庭 (các con của Vệ Cẩn), Tố Tĩnh 素靖 (cháu gọi Trương Chi là cậu), Lục Cơ 陸機,...
Đời Đông Tấn có gia đình Vương Hi Chi 王羲之 với các con Vương Hiến Chi 王獻之, Vương Tuần 王珣 , Vương Dân 王民.
Đời Nam Bắc Triều có Bạc Thiệu Chi 薄紹之, Vương Tăng Kiền 王僧虔, Đào Hoằng Cảnh 陶弘景 (cũng là Đạo gia), Trịnh Đạo Chiêu 鄭道昭, Triệu Văn Thâm 趙文深, Vương Bao 王褒 , ...
Đời Tùy và Đường là thời kỳ đỉnh thịnh của thư pháp với các thư gia Trí Vĩnh 智永 (thiền sư Thích Trí Vĩnh), Thích Trí Quả 釋智果, Đinh Đạo Hộ 丁道護, Âu Dương Tuân 歐陽詢, Ngu Thế Nam 虞世南, Chử Toại Lương 褚遂良, Lục Giản Chi 陸柬之, Lý Thế Dân 李世民 (Đường Thái Tông 唐太宗), Vũ Tắc Thiên 武則天 (vốn là tài nhân của Thái Tông, về sau bà lên ngôi xưng là Đại Thánh Hoàng Đế 大聖皇帝, thư pháp chuyên về hành thư), Tiết Tắc 薛稷, Tôn Kiền Lễ 孫虔禮, Kính Khách 敬客, Hạ Tri Chương 賀知章, Lý Ung 李邕, Trương Húc 張旭, Hàn Trạch Mộc韓擇木, Trương Hoài Cẩn 張懷瑾, Nhan Chân Khanh 顏真卿, Hoài Tố 懷素, Từ Hạo 徐浩, Lý Dương Băng 李陽冰, Liễu Công Quyền 柳公權, Đỗ Mục 杜牧, Cao Nhàn 高閑, ...



Cuồng thảo của Hoài Tố 懷素
Đời Ngũ Đại có Dương Ngưng Thức 楊凝式, Từ Huyễn 徐鉉, ...  
Đời Tống có Lý Kiến Trung 李建中, Vương An Thạch 王安石, tứ gia Tô-Hoàng-Mễ-Sái (tức là Tô Thức 蘇軾, Hoàng Đình Kiên黃庭堅, Mễ Phế [Phất] 米芾, Sái Tương 蔡襄), Tiết Thiệu Chương 薛紹彰, Triệu Cát 趙佶 (tức là vua Tống Huy Tông 宋徽宗, với thư thể đặc thù là sấu kim thể 瘦金體), Nhạc Phi 岳飛, Lục Du 陸游, Khương Quỳ 姜夔, Trương Tức Chi 張即之, Vương Đình Quân 王庭筠, ...

       
                           
Thư pháp hành khải của Mễ Phế (Mễ Phất) 米  đời Tống













Đời Nguyên có Triệu Mạnh Phủ 趙孟頫 (Tùng Tuyết Đạo Nhân 松雪道人), Tiên Vu Khu 鮮于樞, Khang Lý Quỳ Quỳ 康里夔夔 (gốc Mông Cổ), Thái Bất Hoa 泰不華, Nghê Tán倪瓚, ...
Đời Minh có Tống Liêm宋濂, Tống Toại 宋璲 (con Tống Liêm), Tống Khắc 宋克, Tống Quảng 宋廣, Du Hòa 俞和, Giải Tấn 解縉, Thẩm Độ 沈度, Trình Nam Vân 程南雲, Trần Hiến Chương 陳獻章, Thẩm Chu 沈周, Chúc Duẫn Minh 祝允明, Văn Trưng Minh 文徵明, Văn Bành 文彭 (con Văn Trưng Minh), Lý Đông Dương 李東陽, Vương Sủng 王寵, Trần Thuần 陳淳, Vương Trĩ Đăng 王稚登, Từ Vị 徐渭, Đổng Kỳ Xương 董其昌, Hình Đồng 邢侗, Trương Thụy Đồ 張瑞圖, Hoàng Đạo Chu 黃道周, Nghê Nguyên Lộ 倪元璐, ...
Đời Thanh có Phó Sơn 傅山, Vương Đạc 王鐸, Kim Nông 金農, Trương Chiếu 張照, Trịnh Tiếp 鄭燮, Lưu Dung 劉墉, Vương Văn Trị 王文治, Vương Thời Mẫn 王時敏, Chu Đáp 朱耷 (Bát Đại Sơn Nhân 八大山人), Trịnh Phủ 鄭簠, Đát Trọng Quang 笪重光, Trần Diệc Hi 陳亦禧, Ông Phương Cương 翁方綱, Thiết Bảo 鐵保, Quế Phức 桂馥, Tiền Điếm 錢坫, Tiền Phong 錢灃, Đặng Thạch Như 鄧石如, Y Bỉnh Thụ 伊秉綬, Bao Thế Thần 包世臣, Hà Thiệu Cơ 何紹基, Triệu Chi Khiêm 趙之謙, Ngô Xương Thạc吳昌碩, Lý Thụy Thanh 李瑞清, Ông Đồng Hòa 翁同龢, Trương Dụ Chiêu 張裕釗, Khang Hữu Vi 康有為, Tề Bạch Thạch 齊白石, Trịnh Bản Kiều 鄭板橋,...

Xích Bích Phú (của Tô Đông Pha)
với thư pháp Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên











Các thư gia hiện đại có Trịnh Văn Trác 鄭文焯, Tăng Hi 曾熙, Hoàng Tân Hồng 黃賓虹, Vu Hữu Nhiệm 于右任, Mã Nhất Phù 馬一浮, Hoằng Nhất Pháp Sư 弘一法師, Hồ Tiểu Thạch 胡小石, Lỗ Tấn 魯迅, Đặng Tán Mộc 鄧散木, Quách Mạt Nhược 郭末若, v.v. (Trong khuôn khổ bài viết này chỉ có thể kể tên các thư gia hết sức sơ lược như trên).

Trong cộng đồng người Hoa tại Chợ Lớn hiện nay họa gia thì nhiều nhưng thư gia thì hiếm. Tiêu biểu là nhóm Nam Tú Nghệ Uyển 南秀藝苑 do lão sư Lý Tùng Niên 李松年 và thân hữu sáng lập mùa xuân năm 1989. Thư họa gia họ Lý năm nay (1999) được 67 tuổi, sinh tại huyện Hạc Sơn 鶴山, tỉnh Quảng Đông. Thuở nhỏ theo họa pháp Tây phương, lúc trưởng thành học hàm thụ thủy mặc tại Đại Hán Nghệ Thuật Học Viện 大漢藝術學院 ở Hương Cảng. Năm 1961, ông thụ giáo danh họa gia Lương Thiếu Hàng 梁少航 thuộc họa phái Lĩnh Nam 嶺南. Hoạ phái này do Cao Kiếm Phụ 高劍父 sáng lập sau khi ông du học tại Nhật Bản. Hoạ phái này chủ trương phối hợp họa pháp Tây phương với Trung Quốc hoạ, với các danh gia Cao Kiếm Phụ, Cao Kỳ Phong 高奇峰, Trần Thụ Nhân 陳樹人, Triệu Thiếu Ngang 趙少昂 v.v... Về thư pháp, lão sư Lý Tùng Niên sở trường thảo thư và hành thư. Thảo thư của Lý lão sư chịu ảnh hưởng thảo thư của đại thư gia Vu Hữu Nhiệm 于右任 (1879-1961). Hiện nay Vu Hữu Nhiệm được Trung Quốc coi là thảo thánh; năm 1932 ông đề xướng tiêu chuẩn hoá thảo thư, cống hiến rất lớn cho lịch sử thư pháp Trung Quốc. Trong nhóm Nam Tú còn có thư họa gia Quan Cường 關強 (tức Quan Tồn Chí 關存志). Quan lão sư sinh năm 1932 tại huyện Nam Hải 南海 tỉnh Quảng Đông. Về hội họa ông thành thạo thủy mặc, sơn dầu Tây phương, thiết kế, trang trí sân khấu, đã từng dạy hội họa tại trường Huỳnh Kiến Hoa 黃建華 năm 1976. Về thư pháp Quan lão sư sở trường khải thư, lệ thư và hành thư, nét bút hồn hậu chân chất. Chữ lệ của ông chịu ảnh hưởng Triệu Chi Khiêm 趙之謙 đời Thanh, chữ khải chịu ảnh hưởng Nhan Chân Khanh và Liễu Công Quyền đời Đường, còn chữ hành là do ông tự tạo phong cách riêng. Trong nhóm Nam Tú thuở ban đầu còn có thư họa gia Vương Trung Phu 王中孚 nay định cư ở nước ngoài. Vương lão sư bút pháp rắn rỏi sắc sảo chịu ảnh hưởng Nhan Chân Khanh sâu đậm, ngoài ra ông và Lý lão sư cũng sở trường về khắc ấn triện. Họa gia Trương Lộ 張露 (sinh năm 1952 tại Saigon) của nhóm Nam Tú còn đặc trị triện thư  ngụy bi. Họa gia Hoàng Hiến Bình 黃獻平 cũng thạo hành thư và thảo thư. Các thư họa gia Lý Tùng Niên, Quan Cường, Vương Trung Phu đã tổ chức nhiều lớp thư pháp và hội họa, tận tâm truyền dạy thư họa cho cả người Hoa và người Việt. Hiện nay nhóm Nam Tú Nghệ Uyển hoạt động không sôi nổi như xưa. Đáng tiếc trong một cộng đồng người Hoa lớn như vậy số người học thư pháp không nhiều, có lẽ vì bộ môn này đòi hỏi nhiều khổ luyện hay chăng? Tuy vậy thư họa gia Quan Cường vẫn còn nhiệt tâm truyền dạy thư pháp và hội họa cho một nhóm môn đệ tại tư gia của ông.



Chữ TINH 精 (thư pháp Nhạc Phi)



Thọ Xuân Đường Ký (thư pháp Triệu Mạnh Phủ)

Việc học thư pháp xưa nay khởi đầu bằng khải thư, khi thuần thục mới chuyển sang hành thư và thảo thư hoặc triện thư. Thời kỳ đỉnh thịnh của khải thư là đời Đường, nổi bật nhất là các đại thư gia Nhan Chân Khanh 顏真卿, Âu Dương Tuân 歐陽詢 và Liễu Công Quyền 柳公權. Đến đời Nguyên thì có thêm Triệu Mạnh Phủ 趙孟頫. Họ tạo thành bốn phong cách khải thư mô phạm từ đời Đường cho đến nay, gọi là Nhan thể 顏體, Âu thể 歐體 , Liễu thể 柳體 , Triệu thể 趙體. Nhan thể mộc mạc mạnh mẽ, Âu thể thanh tú trang nghiêm, Liễu thể cứng cỏi quật cường, Triệu thể yểu điệu kiều lệ. Người học thư pháp tùy theo sở thích và cá tính của mình mà bắt đầu từ một trong bốn phong cách này. Người học thư pháp luôn cần có thầy, không thể nào tự học được, phải chứng kiến kỹ pháp của thầy mới lĩnh hội được bút ý, có những kỹ pháp cần giảng giải trực quan không thể nào đọc sách mà hiểu. Vai trò của thầy rất quan trọng: phá mê 破迷 và giải hoặc 解惑 . Người mới học thường có ảo tưởng về nét bút của mình, người thầy phải chỉ ra những nét sai (gọi là tự bệnh 字病) của họ, đó là phá mê. Giảng cho họ những điều chưa thông suốt hay hoài nghi, đó là giải hoặc. Nhiều học viên quá nôn nóng, muốn đốt giai đoạn nên bắt đầu tự học hành thư và thảo thư. Hậu quả tai hại là nét bút không có gân cốt, muốn quay về luyện khải thư thì cũng khó: nét bút đã thành bệnh tật.
Thế hệ nhà Nho tiền bối của Việt Nam có rất nhiều vị thư pháp rất đẹp như Phan Thanh Giản, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Long Cát, v.v... Nhưng giới nghiên cứu Hán Nôm chưa có ai quan tâm nghiên cứu về mảng thư pháp trong di sản Hán Nôm của tổ tiên để lại, thật là đáng tiếc. Hiện nay ở Việt Nam, cụ Lê Xuân Hòa là thư gia rất nổi tiếng khắp trong và ngoài nước.

Thư pháp là một đề tài rất rộng không thể nào gói ghém trong một hai trang giấy, thành thử bài viết này chỉ là tản mạn đôi nét khái quát về một môn nghệ thuật tao nhã của Trung Quốc mà thôi.

Tham khảo thêm các mẫu tự.










































           




 

 




2.Thư pháp việt nam

THƯ PHÁP VIỆT VÀ NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN
 
Như chúng ta đã biết, người dân Việt với lòng tự hào và yêu mến những truyền thống văn hóa dân tộc rất cao. Qua hàng nghìn năm đô hộ giặc Tầu, và trăm năm  đô hộ giặc Tây... như lời thống kê của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam cũng như sự cộng hưởng của các nền văn hóa khác thật đậm nét. Như những phong tục tập quán, và nếp sống của dân Việt... bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa Trung Hoa qua quá trình một nghìn năm  thống trị. Cũng như kiến trúc nhà cửa cũng lai theo Tây phương không ít. Mặc dù thế dân tộc Việt Nam dù hòa nhập chứ không bao giờ hòa tan vào bất kỳ nền văn hóa nào. Chúng ta biết học hỏi cái hay của các nền văn hóa khác trở thành cái riêng và độc đáo của mình.
Điểm thay đổi đáng kể nhất có thể nhắc tới là hệ thống chữ Hán Nôm được thay bằng hệ thống chữ quốc ngữ sử dụng các ký tự Latinh  do các linh mục người Pháp truyền bá. Với hai mươi bốn chữ cái và các dấu sắc huyền hỏi ngã nặng, đơn giản và mang tính phổ thông rất nhiều so với hệ thống chữ Hán Nôm vốn khó học và hầu hết chỉ có những giai cấp quan lại trí thức mới đọc và viết được. Nên ngày nay mấy ai đọc và viết được chữ Hán Nôm nữa.
Những ngừơi yêu văn yêu chữ, tôn thờ đạo nghĩa không để con chữ chỉ dừng lại ở chức năng duy trì và truyền bá thông tin...mà nâng nó lên một bậc giá trị tầm cỡ hơn trở thành một nghệ thuật sống động và mang tính chất tâm linh sâu sắc. Đó là nghệ thuật thư pháp. Nghệ thuật này được biết đến tại Việt Nam rõ nét nhất là hình ảnh những ông đồ già bên phố cùng những nét rồng bay uốn lượn.
Như nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiêng sầu...
Theo dòng phát triển, và biến cố lớn của đất nước, người dân phải lo thích nghi cho một cuộc sống mới. Và cũng ít đi những người biết đọc và hiểu được chữ Hán Nôm huống chi là thưởng thức nghệ thuật thư pháp.
Năm nay hoa đào nở
Chẳng thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ.
Một khỏang thời gian khá dài, người ta đã không còn thấy hình ảnh ông đồ già bên phố xuân như ngày nào nữa. Nhưng hôm nay, thế hệ con cháu rồng tiên không thể để mai một đi những truyền thống vốn cao đẹp đó. Nối bước theo nhà thơ Đông Hồ (được xem là ông tổ của nghành thư pháp Việt Nam) đã dùng cọ lông và mực Tầu đễ tạo nên linh hồn của những con chữ nhưng không phải  chữ Hán hay Nôm mà là chữ quốc ngữ ngày nay, và được gọi là THƯ PHÁP VIỆT.
Vốn dựa trên những nguyên tắc của thư pháp Hán để áp dụng cho thư pháp Việt mặc dù hai cấu trúc chữ Hán và Việt này hòan tòan khác nhau cho nên việc áp dụng như vậy có vẽ khập khiễng. Những người chơi thư pháp Việt tới nay cũng chỉ viết theo cảm tính và tự phát. mỗi người tự tìm cho mình một đường lối thiếu bài bản và không thống nhất.
Qua bao nhiêu năm phát triển nền thư pháp Việt ngày nay đã bắt đầu nên hình nên vóc, vậy tại sao chúng ta không tự thống nhất và đưa ra những khái niệm và nguyên tắc riêng cho thư pháp Việt?
Định nghĩa: Thư pháp Việt là một lọai hình nghệ thuật chữ viết, sử dụng các ký tự Latinh với phương tiện cọ lông và mực Tầu để thể hiện.
Được chia ra là hai lối viết chính: Lối trúc và lối Mai


* LỐI TRÚC: là lối viết mạnh mẽ rắn chắc các nét được viết to, mang thần sắc vốn dĩ của thư pháp Hán nhưng cũng không kém phần mềm mại uyển chuyển.<-----(chữ NHẪN, hình bên trái)


* LỐI MAI: các nét chữ được viết mảnh mai từng nét chữ mềm mại thích hợp với cấu trúc của các ký tự Latinh đa số là những nét cong uốn lượng chứ không góc cạnh như chữ Hán.
               
(chữ NHẪN, hình bên phải) ------->
Có người sử dụng cả hai lối này vào trong một tác phẩm, Lối Trúc được dùng cho chữ đại tự và lối Mai được dùng cho câu văn viết kèm.

2- Mỗi thư pháp gia có mỗi phong cánh và nét chữ hòan tòan khác nhau, mỗi người một vẻ. Nhưng được chia vào các thể chính như sau:Điền , Họa , Thủy , Mộc , Phong , Dị .
ĐIỀN THỂ:  là lối viết chữ Việt được sắp xếp thành từng khối vuông hay tròn, được ưa chuộng và khắc chạm trên các bức phù điêu... thường dùng cho những câu đối trong đền chùa...
HỌA THỂ: là một nghệ thuật viết chữ khéo léo có sắp xếp tính tóan sao cho từng đường nét chữ phối hợp thành những hình dạng mang ý nghĩa nhất định.
THỦY THỂ:  là lối viết chữ nhái theo lối viết chữ Hán, chữ viết không ngang hàng mà được viết dọc xuống như nước đổ.
MỘC THỂ: là lối viết mộc mạc giản dị ngay hàng thẳng lối dễ đọc và dễ cảm nhận nhưng không kém phần bay bướm. Lối này được nhiều người ưa thích và thể hiện.

PHONG THỂ: là lối chữ viết nhanh trôi chảy. Khi đặt bút xuống là như một cơn bão quét qua không phút ngập ngừng. Nét chữ tuôn ra theo cảm hứng và quántính vì thế đôi khi nét chữ không hòan chỉnh và hơi khó đọc nhưng vẫn dễ đọc hơn Dị thể.

DỊ THỂ: là lối viết chữ cá tính ngọn bút xuất  phát từ cảm hứng cao độ, đường nét không theo chuẩn mực mà phóng bút tự do. Nét chữ không rõ ràng mà chỉ mang dáng dấp chính của con chữ, người thưởng ngoạn đôi khi cũng phải đóan để hiểu được nội dung.

Chú ý: ( chữ viết cho dù sáng tạo hoặc rắc rối cỡ nào nhưng điều quan trọng phải để ý đó là sự lầm tưởng, có những nét chữ khi tác giả trình bày, dĩ nhiên tác giả đọc được, nhưng phần đông người xem hay nhầm lẫn sang chữ khác vì sáng tạo đó vượt quá khuôn khổ.)
-Có Hai thể chữ cũng nên nói tới
THỂ LONG PHỤNG: là dạng chữ rong được viết bằng một bản gỗ nhỏ có răng cưa. Mỗi chữ được viết vẽ kèm theo những hình ảnh lạ mắt như rồng phụng hoặc các ông Phúc Lộc Thọ.
THỂ ÂM DƯƠNG: là dạng chữ ngược, nhìn vào trông như chữ Hán, muốn đọc thì phải quen lối viết và tưởng tượng ngựơc lại, hoặc nhìn ngược từ mặt sau tờ giấy không thì nhìn vào hình ảnh phản chiếu từ một tấm gương.
        

KỸ THUẬT VẬN CỌ :
Cũng theo phong cách Hán như:
- Ức (nhấn mạnh xuống),
- Đôn (dè dặt),
- Tỏa ( sổ hạ xuống),
- Trì ( viết nét chậm lại),
- Tốc (viết nhanh),
- Hòan ( thả lại, hồi đầu),
- Khẩn (vung bút đột ngột),
- Khinh ( nhẹ nhàng lả lướt bay bỗng),
- Trọng ( nhấn điểm xuyến).
Một tác phẩm chuẩn mực cần phải hội đủ thêm các yếu tố sau: Tâm, Ý, Trí, Khí.
TÂM: khi người viết đặt tâm hồn của mình vào con chữ.  Đôi khi nhìn vào chữ viết của họ mình có thể đoán được cả tính cách và tâm hồn cũng như tâm trạng của người viết. Bị ảnh hưởng bởi (hỷ, nộ, ái, ố) cho nên khi viết cần phải tịnh tâm để tránh những tạp niệm ảnh hưởng tới nét chữ.
Ý: Là những gửi gắm của tác giả trong tác phẩm từ đường nét đến nội dung cũng như những hình ảnh minh họa kèm theo nếu có tạo chiều sâu cho tác phẩm.
TRÍ: Là phần khéo léo của tác giả khi xử lý nét chữ và sắp xếp bố cục cũng như trang trí cho tác phẩm. Sao cho thật sáng tạo và ấn tượng với những phong cách riêng để tác phẩm thêm bắt mắt và thu hút người thưởng ngoạn.
KHÍ: (Bút lực) Là kỹ thuật vận bút của người viết sao cho uyển chuyển, khi nhanh khi chậm khi đậm khi nhạt và dày mỏng sao cho nhịp nhàng và thanh thóat.
Một nét cọ căn bản được chia là các bước sau
 (Khởi bút, Hành bút và Thu bút)
Thường thì phần giữa sẽ nhỏ hơn hai phần đầu và, một nét chữ đã viết  thì không được đồ đi đồ lại....

Thư pháp Việt chia làm các đường nét chính sau
NÉT TRỤ: là nét kéo thẳng đầy mạnh mẽ.

NÉT TẤN:  là nét kéo ngang cũng đầy uy lực.

NÉT PHÁC: gồm các nét phác ngang, dọc, xéo...Khi viết thì khởi bút, hành bút nhưng không có nét dừng bút mà được kéo đi luôn.

NÉT VÒNG: là những nét khởi đầu và được kéo lại thành vòng nét cuối hướng về nét khởi đầu.

NÉT MÓC: là những nét được khởi bút móc vòng xuống nhưng cuối nét không hướng về nét khởi, và khi thu bút không dừng lại mà kéo bút lên tạo ra một đường nhọn cuối nét.


NÉT KÉO: là những nét mỏng kéo dài theo hướng ngang, dọc hoặc vòng.

NÉT LƯỢN: là ngững nét cong gọp lại theo đường gợn sóng.


NÉT SƯỚT: là những khỏang trống trong một nét chữ được tạo ra từ những sớ cọ. Có hai lọai nét sướt: nét sướt ngọn và nét sướt bụng

.Nét sướt ngọn được tạo ra khi kéo ngang bằng ngọn bút và ngọn cọ được tách ra rõ ràng  tạo nên nét sướt cũng rõ nét.
 

.Nét sướt bụng khi nét kéo ngang bằng bụng của ngọn bút .
Khi thưởng lãm một tác phẩm trước khi xét về đường nét và nội dung thì điểm đặc biệt thu hút và có bắt mắt người xem hay không là ở phần trang trí và bố cục tác phẩm. Bố cục thư pháp Việt không trình bày từng chữ từ trên xuống và từng cột như thư pháp Hán, ngọai trừ viết theo dạng đối.
Một tác phẩm viết tràng giang đại hải không ý tứ thì không được xem là một bố cục đẹp. Các chữ viết không được quá khít và cũng đừng quá thưa thớt lõng lẻo. Nét này phải tương quan và bổ sung cho nét kia tránh trùng lập lên nhau gây khó đọc. Các chữ thường liên kết với nhau và tạo thành những khối có kết cấu.
Chữ viết được sắp xếp theo nguyên tắc chữ Việt bình thường, đọc từ trái qua, và xếp hàng từ trên xuống. Chữ cái đầu câu phải viết hoa hoặc được nhấn đậm nét.
Trong tác phẩm thư pháp không nhất thiết chỉ có chữ cái đầu câu hay danh tánh... mới được viết hoa theo lệ, những chữ quan trọng mang ý chính của tác phẩm có thể viết nhấn mạnh đậm nét hoặc viết to để thể hiện rõ ý của tác phẩm.
Các dạng bố cục thường gặp như sau.
DẠNG THÁP: bố cục phần trên nhỏ và to ra phần chân như một ngon tháp tạo cảm giác bền vững.

DẠNG GIÁO: bố cục có dạng một mũi giáo, phần thân to và phần đầu và chân thì nhỏ.

DẠNG TRỤ: là viết theo lối thông thường các chữ cái đầu tiên xếp thành một hành thẳng
Ơn

DẠNG CỤM: bố cục chia ra thành từng cụm từng khối nhỏ.


DẠNG ĐỐI: là dạng chữ viết từng chữ xếp thành một hàng thẳng xuống theo dạng liễn đối tiếng Hán.
ẤN CHƯƠNG: gồm ba lọai Nhân chương , Yêu chương, và Danh chương.


NHÂN CHƯƠNG: được nằm ở vị trí trên cùng của tác phẩm. Thường đại diện cho tên của một hội nhóm mà tác giả tham gia hoặc những biểu trưng đặc biệt. Cộng thêm điểm mốc thời gian của tác phẩm.

YÊU CHƯƠNG: được đóng vào giữa tác phẩm
 

DANH CHƯƠNG: được đóng ở cuối tác phẩm ngay chữ ký của tác giả.

Tùy theo bố cục của tác phẩm mà ấn chương được đóng ở đâu cho hợp lý nhất.
       Để tôn trọng tác giả của câu văn, người viết thường phải viết tên tác giả đính kèm theo tác phẩm. Trong trường hợp không rõ tên tác giả thì dưới chữ ký của người viết phải kèm các chữ như: Thủ bút, cẩn bút, viết...với ý nghĩa người viết chỉ làm chủ tác phẩm về nét chữ và hình thức mà thôi.
 
CÁCH CẦM CỌ
 Sao cho ngọn bút vuông góc với mặt phẳng của giấy. Theo lối viết chữ Hán ngày xưa thì họ viết chữ từ bên phải sang trái cho nên họ không được chạm tay vào giấy nếu không những nét chữ chưa khô sẽ bị lem khi tay quẹt vào. Nhưng chữ Việt thì không gặp vấn đề đó, cho nên cách cầm cọ thế nào chỉ thể hiện kiểu cách và công phu của người viết. Nhưng không bắt buộc phải nhấc tay hổng lên trên mặt giấy. có ba cách cầm cọ thường gặp:
ĐIỂM THỦ: người viết chống một ngón tay út chạm vào mặt giấy lấy điểm tựa.TÌ THỦ: cạnh bàn tay tiếp xúc với mặt giấy như cách viết chữ bình thườngBỔNG THỦ: tay nhấc bổng lên theo lối thư pháp Hán.

Đây là những thống kê mạo muội căn bản ban đầu cho thư pháp Việt. mong các bạn cho ý kiến đóng góp thêm để bộ môn thư pháp Việt ngày càng hoàn thiện và thống nhất.

 
 



 


 




  .in

     






L










Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Mẫn nông- 憫農